CẦN HỖ TRỢ VỀ KHUNG PHÁP LÝ VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

15/09/2016 09:00
Tại các trung tâm tài chính lớn trên thế giới, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đã rất phát triển. Tuy nhiên tại Việt Nam, thị trường TPDN hiện chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Vậy, làm thế nào để thúc đẩy thị trường TPDN Việt Nam phát triển và trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho doanh nghiệp? Tạp chí Chứng khoán đã trao đổi với ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thị trường Trái phiếu (TTTP) Việt Nam (VBMA) xoay quanh chủ đề trên.

Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về thực trạng hoạt động của thị trường TPDN Việt Nam trong những năm gần đây?

Năm 2006, sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành TPDN đã tạo nền móng chính thức đầu tiên cho sự hình thành và phát triển của thị trường. Trải qua 10 năm phát triển, đến nay, quy mô toàn thị trường TPDN Việt Nam đạt khoảng 110.000 tỷ đồng, tương đương 3,5% GDP tính đến ngày 30/6/2016. So với giai đoạn 2010 - 2011 khi thị trường TPDN khá trầm lắng thì trong những năm gần đây, hoạt động của thị trường TPDN Việt Nam đã sôi động và có những bước cải thiện rõ nét.

Đầu tiên phải kể đến những nỗ lực của Chính phủ trong việc hoàn thiện khung pháp lý để vận hành thị trường. Trên thị trường sơ cấp, Nghị định 90/2011/NĐ-CP1 (Nghị định 90) và các văn bản hướng dẫn liên quan (Thông tư số 211/2012/ TT-BTC2) ra đời thay thế Nghị định 52/2006/NĐ-CP đóng vai trò “xương sống” cho hoạt động phát hành riêng lẻ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động phát hành TPDN ra công chúng được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán và Thông tư 162/2015/TT-BTC ngày 26/10/2015 hướng dẫn chào bán chứng khoán ra công chúng. Đối với hoạt động trên thị trường thứ cấp, khuôn khổ pháp lý cũng đang từng bước hoàn thiện. Từ buổi ban đầu chỉ có văn bản điều chỉnh hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá3, đã tiến tới ban hành quy định điều chỉnh hoạt động mua bán hẳn (outright) TPDN trên thị trường thứ cấp (Thông tư 28/2011/TT-NHNN4 và văn bản thay thế là Thông tư 22/2016/TT-NHNN (Thông tư 22) ngày 30/6/2016 quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nhà nước (NHNN) mua TPDN).

Với nền tảng về pháp lý được hoàn thiện, số lượng doanh nghiệp và quy mô của các đợt phát hành trái phiếu tăng trưởng rõ rệt, trong đó có những đợt phát hành lên tới 3.000 - 5.000 tỷ đồng. Đối tượng tổ chức phát hành đa dạng, bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân, trong đó khối doanh nghiệp tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn với những cái tên nổi bật như Vingroup, Masan. Các nhà đầu tư TPDN cũng đa dạng hơn. Ngoài khối ngân hàng thương mại (NHTM) còn có sự tham gia của các quỹ, công ty bảo hiểm, tuy nhiên tỷ trọng đầu tư rất nhỏ. Gần đây đối tượng nhà đầu tư TPDN đã mở rộng trở lại sang khối khách hàng cá nhân. Đây được xem là một trong những đối tượng nhà đầu tư tiềm năng, hứa hẹn tạo ra nguồn cung vốn lớn cho thị trường TPDN trong thời gian tới.

Mặc dù đã có những bước chuyển biến rõ rệt, tuy nhiên thị trường TPDN Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng với kỳ vọng. Theo “Lộ trình phát triển TTTP Việt Nam đến năm 2020” được Bộ Tài chính phê duyệt theo Quyết định 261/QĐ- BTC, dư nợ TPDN Việt Nam đến 2020 đạt khoảng 7% GDP. Tuy nhiên thực tế tại thời điểm cuối năm 2015, dư nợ TPDN của Việt Nam mới chỉ đạt 2,5% GDP (~5 tỷ USD). Quy mô này thấp hơn khá nhiều so với quy mô thị trường TPDN của các nước trong khu vực như Malaysia 44% GDP (~118 tỷ USD), Singapore 32% GDP (~91 tỷ USD), Thái Lan 19% GDP (~70 tỷ USD), Philippines 6% GDP (~17 tỷ USD).

Bên cạnh đó, thị trường giao dịch TPDN thứ cấp cũng là điểm hạn chế lớn. Ngoại trừ một số TPDN của các tổ chức phát hành lớn (các NHTM, doanh nghiệp quy mô lớn như Vinacomin, Vingroup…), hầu hết các TPDN khác đều không có thanh khoản. Số liệu giao dịch trên thị trường niêm yết được Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) Hà Nội (HNX) thống kê cho thấy, hoạt động giao dịch TPDN tại SGDCK rất thấp. Nếu như giá trị giao dịch năm 2013 là 4.886 tỷ đồng, thì năm 2014 và 2015 lần lượt là 3.222 tỷ đồng và 4.850 tỷ đồng.

Theo ông, đâu là nguyên nhân khiến thị trường TPDN còn chậm phát triển so với tiềm năng?

Một số nguyên nhân chính khiến thị trường TPDN còn chậm phát triển so với tiềm năng cụ thể như sau:

Thứ nhất, hệ thống chính sách, khung pháp lý hỗ trợ thị trường còn có một số điểm chưa khuyến khích được các doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia thị trường. Khó khăn của doanh nghiệp trong việc đáp ứng một số điều kiện phát hành trái phiếu sơ cấp như báo cáo tài chính (BCTC) kiểm toán có lãi (hạn chế đối với các doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu tư dự án, chưa có nguồn thu/nguồn thu chưa bù đắp được chi phí, có nhu cầu vốn nhưng lại không đáp ứng được điều kiện phát hành), mục đích sử dụng vốn trái phiếu, BCTC áp dụng đối với mô hình công ty mẹ - công ty con, tỷ lệ tham gia vốn tự có của doanh nghiệp vào dự án… Ngoài ra, Thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định hạn chế các NHTM không được cấp tín dụng trung hạn, dài hạn cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu. Trong bối cảnh các NHTM đang là nhà đầu tư chính cung ứng vốn trên TTTP thì quy định này gây khó khăn cho các doanh nghiệp có kế hoạch huy động vốn đầu tư vào các dự án thông qua hình thức mua cổ phần của doanh nghiệp khác đang là chủ đầu tư dự án.

Thứ hai, minh bạch thông tin trên thị trường TPDN còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng đánh giá rủi ro của nhà đầu tư. Mặc dù quy định hiện hành đã yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin (CBTT) đầy đủ, tuy nhiên chưa có chế tài áp dụng đối với các tổ chức phát hành vi phạm quy định (quy định về phát hành, CBTT sau phát hành...) cũng chưa cụ thể hoặc chưa đủ mạnh để bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ một cách đầy đủ.

Thứ ba, chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập và cũng chưa có quy định tổ chức phát hành trái phiếu phải có xếp hạng tín nhiệm nên hiện tại nhà đầu tư hoàn toàn tự thực hiện đánh giá, xếp loại TPDN theo chuẩn mực nội bộ của mình, chưa có căn cứ độc lập đáng tin cậy để so sánh, đối chiếu mức độ rủi ro của các trái phiếu khác nhau. Do vậy, dẫn đến việc ra quyết định đầu tư cũng như việc định giá trái phiếu trở nên thiếu căn cứ và gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, quy định hiện tại cũng chưa yêu cầu trái phiếu phát hành phải niêm yết trên SGDCK nên nhà đầu tư theo dõi, cập nhật thông tin về tổ chức phát hành trong suốt vòng đời của trái phiếu gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát rủi ro của khoản đầu tư cũng như hạn chế thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.

Thứ tư, Thông tư 22 mới đây được NHNN ban hành để thay thế cho Thông tư 28/2012/TT-NHNN mới chỉ dừng ở việc quy định giao dịch mua bán hẳn (outright) giữa TCTD với các tổ chức kinh tế không phải TCTD, còn giao dịch outright TPDN giữa các TCTD với nhau hiện chưa có quy định cụ thể. Điều này gây khó khăn cho TCTD khi muốn thực hiện giao dịch với nhau, đặc biệt trong bối cảnh TCTD vẫn đang là nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường.

Thông tư 22 có quy định các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mua TPDN. Điều này sẽ tác động như thế nào tới sự phát triển của thị trường TPDN trong thời gian tới, thưa ông?

Các NHTM vốn là một nhà đầu tư chuyên nghiệp, có hệ thống quy trình, công nghệ và cán bộ nhìn chung đồng bộ và có trình độ chuyên sâu hơn các nhà đầu tư nhỏ lẻ hoặc nhà đầu tư cá nhân trên TTTP nói chung và thị trường TPDN nói riêng. Xét riêng trên thị trường TPCP, các NHTM cũng chính là những nhà đầu tư chủ đạo (nắm giữ tới trên 80% tổng giá trị TPCP đang lưu hành). Do vậy, việc các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mua TPDN không chỉ giúp cho thị trường TPDN có một lực cầu thường xuyên và dồi dào, đồng thời còn hỗ trợ thị trường nhanh chóng hơn trong việc tiệm cận tới các thông lệ giao dịch chuẩn mực trên thế giới do đây là những nhà đầu tư chuyên nghiệp nhất của thị trường tài chính.

Tuy nhiên, việc các NHTM được mua TPDN không phải là điểm mới tại Thông tư 22 mà tại thông tư này có quy định rõ hơn việc các NHTM được mua TPDN trên cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, thay vì chỉ quy định trên thị trường sơ cấp như tại Thông tư 28. Do vậy, theo tôi, cũng không có tác động mang tính đột biến tới sự phát triển của thị trường TPDN trong thời gian tới.

Theo số liệu của Asiabondonline, tổng giá trị TPDN lưu hành tính đến ngày 30/6/2016 vào khoảng 38.792 tỷ đồng, chỉ xấp xỉ bằng 4,2% so với tổng giá trị TPCP lưu hành. Như vậy có thể thấy quy mô thị trường TPDN Việt Nam hiện rất nhỏ, ngay cả khi so sánh với thị trường TPCP cũng còn rất khiêm tốn. Điều này cho thấy thị trường TPDN còn nhiều tiềm năng để phát triển, đồng thời để phát huy được thế mạnh của các nhà đầu tư là các NHTM khi tham gia thị trường TPDN thì vẫn cần phải tháo gơ và xử lý dần các vướng mắc vốn có của thị trường này. Một số rào cản, hạn chế của thị trường TPDN có thể kể tới gồm: (i) Chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập cho các doanh nghiệp phát hành; (ii) Chưa có hệ thống thông tin đồng bộ, minh bạch và dễ tiếp cận với thị trường; (iii) Cấu trúc các sản phẩm TPDN còn khá phân hóa; (iv) Hình thức giao dịch TPDN vẫn chủ yếu là giao dịch tự thỏa thuận, không qua sàn; điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro thanh toán cho nhà đầu tư.

Nhiều ý kiến cho rằng, để thị trường TPDN phát triển, cần có chiến lược phát triển dài hạn, hệ thống pháp lý hoàn thiện, cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu, thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm… Với vai trò là cầu nối giữa các hội viên và cơ quan quản lý, VBMA có đề xuất gì với cơ quan quản lý để thúc đẩy thị trường TPDN phát triển?

Về phía VBMA, chúng tôi đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng các thành viên thị trường cũng như cơ quan quản lý để thúc đẩy thị trường TPDN. Thị trường TPDN Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khai, còn nhiều tiềm năng phát triển và rất cần những hỗ trợ của cơ quan quản lý về hoàn thiện khung pháp lý và định hướng phát triển. Với bối cảnh hiện tại của nền kinh tế cũng như thị trường tài chính Việt Nam, chúng tôi tập trung vào một số đề xuất đối với cơ quan quản lý như sau:

Thứ nhất, để hỗ trợ cho tổ chức phát hành, cần đẩy nhanh việc ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 90 về phát hành TPDN trong năm 2016 để phù hợp hơn với thực tế thị trường. Điều kiện phát hành trái phiếu nên theo hướng nới lỏng về điều kiện tài chính nhưng tăng cường điều kiện về công bố, minh bạch thông tin. Trong đó, cụ thể nhất là xem xét việc yêu cầu tổ chức phát hành trái phiếu phải có xếp hạng tín nhiệm độc lập. VBMA đánh giá đây là một cải cách thiết yếu quan trọng cần cân nhắc nhằm thúc đẩy cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Ngoài ra, cũng cần cho phép doanh nghiệp linh hoạt trong việc sử dụng vốn trái phiếu với các mục đích hợp pháp.

Thứ hai, để tạo điều kiện cho nhà đầu tư, VBMA đề xuất sửa đổi một số nội dung sau:

- Về đối tượng được mua TPDN, đề nghị cân nhắc điều chỉnh lại nội dung Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 90 theo hướng cho phép nhà đầu tư cá nhân được tham gia vào thị trường (thay vì chỉ cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia như dự thảo hiện nay).

- Trên cơ sở khung pháp lý về tổ chức xếp hạng tín nhiệm, sớm triển khai thành lập công ty xếp hạng tín nhiệm để hỗ trợ nhà đầu tư trong việc đánh giá chính xác hơn rủi ro tín dụng của tổ chức phát hành.

- Sớm thành lập Trung tâm thông tin trái phiếu cũng như quy chế hoạt động của Trung tâm để các nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận thông tin trên thị trường, phục vụ quá trình ra quyết định đầu tư.

Thứ ba, để tạo điều kiện cho phát triển thị trường giao dịch thứ cấp, cần xem xét bổ sung văn bản quy định hoạt động mua bán trái phiếu thứ cấp giữa các TCTD với nhau. Trong điều kiện chưa thể đa dạng hóa nhanh với quy mô lớn các đối tượng nhà đầu tư tham gia vào TTTP, Chính phủ nên xem xét rà soát để có chiến lược cạnh tranh tổng thể với các nước trong việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài như: (i) Cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất-tỷ giá đa dạng hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài, (ii) Áp dụng chính sách thuế, phí linh hoạt hấp dẫn hơn.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Thanh Huệ
Tìm kiếm