Trên cơ sở xem xét quy định của pháp luật về chứng khốn và nguyên tắc thực hiện điều ước quốc tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện điều ước quốc tế liên quan tới việc xác định tỷ lệ SHNN của CTĐC, một số vấn đề sau đây cĩ thể phát sinh:
Một là, vấn đề xác định tỷ lệ SHNN
Nhà ĐTNN trở thành cổ đơng của CTĐC thơng qua (1) giao dịch mua cổ phiếu được niêm yết/giao dịch trên TTCK; (2) tham gia mua cổ phần của CTĐC trong đợt phát hành; (3) nhận chuyển nhượng cổ phần của CTĐC từ các cổ đơng khác và (4) các hình thức khác theo quy định pháp luật (như được thừa kế, tặng, cho…). Trong đĩ, để thực hiện giao dịch mua - bán cổ phiếu niêm yết/giao dịch trên TTCK, nhà ĐTNN phải mở tài khoản giao dịch chứng khốn.
Đối với CTĐC cĩ cổ phiếu niêm yết/giao dịch trên thị trường cĩ tổ chức phải thực hiện thơng báo tỷ lệ tối đa nhà ĐTNN được sở hữu khi cĩ thay đổi và đăng ký chốt tỷ lệ sở hữu này với Trung tâm Lưu ký Chứng khốn và Sở Giao dịch Chứng khốn nơi cổ phiếu của CTNY/giao dịch. Trên cơ sở đăng ký tỷ lệ SHNN của CTĐC, nhà ĐTNN chỉ được giao dịch - mua bán khơng vượt quá tỷ lệ đĩ. Đối với việc nhận chuyển nhượng hoặc tham gia vào đợt phát hành cổ phiếu của CTĐC, pháp luật chứng khốn khơng quy định việc nhà ĐTNN cĩ nghĩa vụ chứng minh thuộc quốc gia ký kết hoặc là thành viên của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia.
Như vậy, các CTĐC nĩi chung (bao gồm cơng ty cĩ cổ phiếu niêm yết/giao dịch trên TTCK và các cơng ty chưa niêm yết/giao dịch cổ phiếu) sẽ khơng thể biết và khơng cĩ khả năng để kiểm sốt được nhà đầu tư mang quốc tịch nước nào sẽ mua/ giao dịch cổ phiếu để trở thành cổ đơng của cơng ty. Hệ quả của quy định pháp luật sẽ phát sinh các tình huống sau:
Tình huống thứ nhất, nếu doanh nghiệp cĩ ngành nghề kinh doanh thuộc trường hợp cĩ sự khác biệt giữa các cam kết quốc tế cĩ quy định về tỷ lệ sở hữu thì việc xác định cam kết quốc tế phải tuân thủ để xác định tỷ lệ SHNN hiện chưa được hướng dẫn cụ thể, gây khĩ cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhà nước.
Tình huống thứ hai, nếu cùng hoạt động trong ngành nghề đầu tư kinh doanh cĩ điều kiện quy định tại Luật Đầu tư và cĩ cam kết quốc tế (nhưng khơng cĩ quy định về tỷ lệ sở hữu), nhà ĐTNN chỉ được sở hữu tối đa 49% cổ phần của một CTĐC (Khoản 2, điều 1, Nghị định 60/2015/NĐ-CP), tuy nhiên, quy định này khơng áp dụng đối với loại hình doanh nghiệp khác (như cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần khơng đại chúng).
Cĩ thể thấy, các trường hợp trên nếu thực hiện, sẽ dẫn đến sự khác biệt giữa các CTĐC và cơng ty khơng đại chúng trong việc thực hiện một số cam kết quốc tế, ảnh hưởng tới tính hiệu lực của điều ước quốc tế.
Hai là, một số vấn đề trong thực hiện văn bản hướng dẫn điều ước quốc tế
Để triển khai thực hiện, nội dung của các điều ước quốc tế cần được hướng dẫn chi tiết bởi văn bản quy phạm pháp luật (nội luật hĩa). Tuy nhiên, hiện cĩ những văn bản quy phạm pháp luật khi hướng dẫn chưa đảm bảo chi tiết nội dung cần hướng dẫn, hoặc chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung khi cĩ thay đổi văn bản pháp lý liên quan. Cĩ thể dẫn chứng trường hợp cụ thể như sau:
Để triển khai thực hiện các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) liên quan tới một số hoạt động thương mại, Bộ Cơng thương đã ban hành Thơng tư 34/2013/TTBCT ngày 24/12/2013 cơng bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hĩa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hĩa của các doanh nghiệp cĩ vốn ĐTNN tại Việt Nam. Tại văn bản này cĩ quy định hạn chế doanh nghiệp cĩ vốn ĐTNN tại Việt Nam khơng được thực hiện quyền phân phối dược phẩm: gồm các mặt hàng thuốc theo quy định tại Khoản 2, Điều 2, Luật Dược số 34/2005/QH11(Phụ lục 3 về Danh mục hàng hĩa khơng được thực hiện quyền phân phối).
Căn cứ theo quy định trên, doanh nghiệp cĩ vốn ĐTNN theo cam kết WTO sẽ bị hạn chế, khơng được thực hiện quyền phân phối các sản phẩm, thành phẩm, nguyên liệu thuộc mặt hàng dược liệu được quy định tại Luật Dược 2005. Tuy nhiên, Luật Dược đã được sửa đổi năm 2013 và 2016, theo đĩ, khái niệm về “Dược” theo Luật Dược 2005 cĩ thay đổi. Liên quan tới việc xác định tỷ lệ SHNN tại CTĐC hoạt động trong ngành Dược sẽ áp dụng theo nội hàm của “Dược” theo Luật Dược 2016 hay vẫn xác định theo nội hàm của “Dược” theo Luật Dược 2005? Điều này hẳn sẽ gây khĩ khăn cho CTĐC cĩ kinh doanh dược phẩm và cơ quan quản lý nhà nước khi xác định tỷ lệ SHNN tại doanh nghiệp
Thiết nghĩ, để đảm bảo sự đồng bộ chính sách, pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cĩ quy định liên quan tới hoạt động của nhà ĐTNN trên TTCK nĩi chung và xác định tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN tại CTĐC nĩi riêng thì trong quá trình xây dựng Luật Chứng khốn (sửa đổi), việc rà sốt, đánh giá mức độ phù hợp quy định pháp luật hiện hành và điều ước quốc tế theo tiêu chí cụ thể, rõ ràng để từ đĩ cĩ những giải pháp hạn chế các bất cập đang phát sinh, tránh những xung đột giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế cần được cơ quan soạn thảo coi trọng.